Đề thi vào 10 môn Ngữ Văn tỉnh Phú Yên 2020-2021 có đáp án

Đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh vào lớp 10 tỉnh Phú Yên, năm học 2020-2021. Thời gian làm bài 120 phút (không kể thời gian phát đề).

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT. Môn thi Ngữ Văn.

Hình thức thi tự luận.

PHẦN I: ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích dưới đây:

(1) Cuộc sống này vốn không chỉ có hương thơm của hoa hồng và vẻ thơ mộng của dòng sông, nó còn có cả những phút giây bị gai hoa hồng đâm đến ứa máu hoặc vẫy vùng giữa dòng nước chảy xiết. Bên cạnh những niềm vui là những khó khăn và cạm bẫy luôn chực chờ chỉ cần bạn lơ là mất cảnh giác chúng sẽ xô tới. Chính những khó khăn thử thách ấy sẽ góp phần nhào nặn bạn trở thành một phiên bản tốt hơn.

(2) Sẽ có những lúc bạn hoang mang, chông chênh, mệt mỏi và hoàn toàn mất phương hướng. Đó có thể là khi bạn thi trượt cuộc thi mà bạn nghĩ là quan trọng nhất đời mình. Đó là khi người bạn thân nhất quay lưng đi sau khi đâm vào lưng bạn một vết dao.

[…]

(3) Đế vượt qua được những khoảnh khắc đó, bạn phải tìm kiếm cho mình một điểm tựa vững chắc luôn cho bạn lời khuyên và không bao giờ rời xa. Đến cái bóng cũng rời xa bạn khi bạn đi vào bóng tối, nhưng điểm tựa thì không, mỗi người hãy tìm kiếm cho mình một điểm tựa. Có một loại điểm tựa như thế, thường được gọi là “trọng tâm cuộc đời”.

(Phi Tuyết Sống như ngày mai sẽ chết, NXB Thế giới, 2017, tr.37-39)

Câu 1. (0,5 điểm) Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. (0,5 điểm) Theo tác giả, cuộc sống này có những gì ?

Câu 3. (1,0 điểm) Chỉ ra và gọi tên các phép liên kết về hình thức được sử dụng trong đoạn (2).

Câu 4. (1,0 điểm) Theo em, vì sao tác giả cho rằng: Đến cái bóng cũng rời xa bạn khi bạn đi vào bóng tối, nhưng điểm tựa thì không ?

PHẦN II: LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (3,0 điểm)

Viết bài văn ngắn (khoảng một trang giấy thi) bàn về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Chính những khó khăn thử thách sẽ góp phần nhào nặn bạn trở thành một phiên bản tốt hơn.

Câu 2. (4,0 điểm) Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chăng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đội tri kỉ.
Đồng chí !
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

(Trích Đồng chí – Chính Hữu, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.128)

Đáp án Đề thi môn Ngữ Văn tuyển sinh vào lớp 10 tỉnh Phú Yên năm 2020-2021

PHẦNCâuNội dung
I1– Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: nghị luận
2– Theo tác giả, cuộc sống này vốn không chỉ có hương thơm của hoa hồng và vẻ thơ mộng của dòng sông, nó còn có cả những phút giây bị gai hoa hồng đâm đến ứa máu hoặc vẫy vùng giữa dòng nước chảy xiết.
3Phép liên kết về hình thức được sử dụng trong đoạn (2):

– Phép thế: “đó” = “những lúc bạn hoang mang, chông chênh, mệt mỏi và hoàn toàn mất phương hướng.”

– Phép lặp: “là khi”, “bạn”.

4Hs trả lời theo suy nghĩ của mình
II1Bạn có biết kim cương – một thứ quý giá vào bậc nhất trên cuộc đời này được tạo ra như thế nào không? Nó phải trải qua quá trình chịu nhiệt độ cao và áp suất cực kỳ lớn mới ra đời được. Điều gì cũng vậy, muốn có thành quả tốt đẹp, tất cả đều phải trải qua những khó khăn. Như Anthony Robbins từng nói: “Khó khăn hôm qua nhào nặn nên con người bạn hôm nay”. Khó khăn là những rào cản mà cuộc sống mang lại. Nhiều người nghĩ đó là thứ đáng ghét. Nhưng nếu đường đời bằng phẳng, trơn láng thì thành công đến với bạn không có ý nghĩa gì. Khó khăn thực chất giúp bạn khám phá ra năng lực của bản thân. Nó sẽ “quăng quật, vần vũ” bạn để buộc bạn phải trưởng thành, phải vượt qua. Nick Vujicic sinh ra khó khăn đã ập đến với anh ấy và nó còn theo anh đến suốt cuộc đời. Người ta đâu hình dung được một nhà diễn thuyết như anh đã từng bao lần khóc, mồ hôi rơi và đổ máu để tập luyện, để biến cái không thể thành có thể. Khó khăn ấy nhào nặn một người không lành lặn như thế vẫn đứng sừng sững giữa cuộc đời. Vậy nên bạn đừng bỏ cuộc. Khó khăn không đáng bị ghét như thế, mà đôi khi chúng ta còn phải cảm ơn chúng. Nó mang lại sức mạnh cho ta, nhào nặn ta và lan tỏa đến người khác. Bất cứ ai thành công cũng muốn cảm ơn những khó khăn của cuộc đời!
21. Giới thiệu chung

– Giới thiệu ngắn gọn tác giả Chính Hữu và bài thơ “Đồng chí” – là một trong số những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Chính Hữu và cũng là của nền thơ kháng chiến.

– Qua bài thơ ta càng hiểu rõ hơn về cơ sở hình thành tình đồng chí cũng như tình cảm mà các anh dành cho nhau.

2. Phân tích

*. Khái quát chung: Hoàn cảnh sáng tác:

– Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt – Bắc thu đông (1947). Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.

– Bài thơ được in trong tập “Đầu súng trăng treo” ( 1966) – tập thơ phần lớn viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

*. Cơ sở hình thành tình đồng chí

– Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

“Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua”, “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa nhau, “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”. Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: họ là những người nông dân nghèo.

– Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Họ vốn “chẳng hẹn quen nhau” nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng. “Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.

– Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.

=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để mở ra đoạn hai.

*. Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí

– Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa,… Từ “mặc kệ”cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.

– Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :

+ Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

+ Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Cặp từ xưng hô “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.

3 Tổng kết

Tổng kết cảm nhận của em.

Đề thi Văn vào 10 - Tags: ,